Quai bị là bệnh lây nhiễm được gây ra bởi virus. Bệnh có khả năng lây nhiễm cao trong cộng đồng và sẽ gây ra nhiều tác hại lâu dài đối với sức khoẻ, đặc biệt là hệ thống sinh sản của nam giới. Biến chứng viêm tinh hoàn của bệnh có thể dẫn tới xoắn tinh hoàn gây vô sinh.
Bệnh quai bị là gì?
- Quai bị là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus quai bị (Mumps virus) , thuộc giống Rubulavirus, họ Paramyxoviridae gây nên. Virus thường lây lan thông qua ho, hắt hơi hoặc các tiếp xúc khác với nước bọt từ người bị nhiễm virus sang người lành. (1)
- Theo thống kê, đây là bệnh lưu hành rộng rãi trên toàn cầu, tỷ lệ mắc quai bị tập trung cao ở các khu vực đông dân cư, vùng có thời tiết quanh năm mát mẻ hoặc lạnh giá, nơi có đời sống không được cao. ..
- Tại Việt Nam, quai bị là bệnh lưu hành rộng trên khắp cả nước. Bệnh hay gặp nhiều mùa trong năm, thường gây thành các đám dịch vừa và nhỏ. Tỷ lệ mắc bệnh dao động từ 10-40 trường hợp trên 100.000 dân và bệnh thường tập trung chủ yếu ở một số tỉnh miền Bắc, Tây Nguyên.
- Tỷ lệ chết do bệnh quai bị cũng khá thấp, không vượt quá 1/100.000 dân, nhưng không hiếm trường hợp có biến chứng nặng như viêm não, viêm màng não hoặc viêm đa khớp.
Nguyên nhân gây bệnh quai bị:
- Quai bị có mặt trên toàn thế giới và bệnh chủ yếu gặp ở người lớn. Trẻ sơ sinh, thanh thiếu niên hay người lớn cũng có thể mắc bệnh. Nguyên nhân gây bệnh do virus gây ra, virus lây lan theo đường hô hấp, nước bọt và giọt bắn khi bệnh nhân ho, hắt hơi hay tiếp xúc.
- Có những vấn đề đặt ra là virus có thể lây truyền theo đường mồ hôi và nước tiểu không, khi người ta cho rằng virus quai bị có khả năng sống trong máu của bệnh nhân khoảng 2-3 tuần.
- Mumps virus phát triển cao trong huyết thanh khoảng 12-15 ngày sau khi nhiễm bệnh rồi lây lan sang các bộ phận khác. Thời gian lây nhiễm là khoảng 6 ngày từ lúc có cơn toàn phát sưng tuyến nước bọt cho đến 2 tuần sau khi có các triệu chứng lâm sàng.
- Có những vấn đề đặt ra là virus có thể lây truyền theo đường mồ hôi và nước tiểu không, khi người ta cho rằng virus quai bị có khả năng sống trong máu của bệnh nhân khoảng 2-3 tuần.
Mumps virus phát triển cao trong huyết thanh khoảng 12-15 ngày sau khi nhiễm bệnh rồi lây lan sang các bộ phận khác. Thời gian lây nhiễm là khoảng 6 ngày từ lúc có cơn toàn phát sưng tuyến nước bọt cho đến 2 tuần sau khi có các triệu chứng lâm sàng.
Triệu chứng, dấu hiệu nhận biết bệnh quai bị:
Tuỳ theo mức độ bệnh, nhiều người gần như không có triệu chứng, nhưng một số triệu chứng hay thấy là:
- Sốt, đau mỏi người, nhức đầu;
- Mệt mỏi và chán ăn;
- Buồn nôn, nôn;
- Sưng đau tuyến mang tai, nách, cổ hoặc hàm;
- Một số bệnh nhân có thêm nhiều khối u nhỏ ở ngực. ..
Trong những trường hợp hiếm hơn, bệnh quai bị sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng. Người lớn mắc quai bị sẽ nguy hiểm hơn so với trẻ nhỏ. Đáng tiếc hiện nay vẫn chưa có thuốc đặc hiệu chữa bệnh quai bị.
Sau khi nhiễm virus khoảng 7-14 ngày, người bệnh sẽ có các biểu hiện như buồn nôn, mệt mỏi, chán ăn, sốt, sợ ánh sáng, cảm giác rát cổ họng và đau nhức ở góc hàm. Sau sốt khoảng 3 ngày, tuyến mang tai của người bệnh sẽ bắt đầu sưng lên và gây đau kéo dài khoảng 1 tuần. Người bệnh sẽ sưng 1 hoặc 2 bên mang tai và việc sưng có thể không cùng thời điểm vì tuyến thứ 2 chỉ sưng khi tuyến 1 đã bớt sưng.
Vùng sưng của quai bị cũng khá đặc trưng, vết sưng sẽ lan đến mặt, dưới hàm, từ tai lên trên và ra ngoài; trong một vài trường hợp nặng còn lan vào phổi gây phù nề trước xương sườn. Người bệnh sẽ có cảm giác khó chịu ở khu vực bị sưng mặc dù da ở chỗ sưng không đỏ và phù nề.
Trong trường hợp nặng, bệnh nhân sẽ cảm thấy khó khăn khi trò chuyện và giao tiếp. Tuy nhiên có 25% bệnh nhân có nhiễm virus mà không có biểu hiện rõ ràng vô tình trở thành nguồn lây truyền bệnh sang những người khác.
Đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh quai bị
-
Bệnh có thể xảy ra quanh năm ở nước ta, nhưng bệnh bùng phát mạnh và nhanh hơn vào những tháng hè vì vùng có khí hậu mát mẻ và khô ráo sẽ là nơi thuận lợi để bệnh lây lan nhiều hơn.
- Quai bị rất dễ lây lan ở những khu vực có đông người như nhóm trẻ mẫu giáo, trẻ nhỏ ở các trường trung học phổ thông hoặc sinh viên và người lớn cũng là đối tượng của bệnh. Tỷ lệ nhiễm bệnh ở nam sẽ cao hơn ở nữ giới.
- Quai bị cũng ít hơn ở nhóm trẻ dưới 2 tuổi vì trẻ chỉ được cách ly trong 6 tháng đầu đời với người mẹ đã mang bệnh. Sau 2 tuổi, tần suất bị nhiễm bệnh cao hơn và đạt đỉnh điểm vào lứa tuổi từ 10-19 tuổi.
Biến chứng thường gặp của bệnh quai bị
Đây là căn bệnh thường hạn chế gặp ở người lớn nhưng biến chứng quai bị ở người lớn thường lại nặng nề hơn so với trẻ em.
1. Biến chứng ở nam giới
- Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn: Biến chứng này thường chiếm khoảng 20-35% nam giới bị bệnh ngay sau tuổi dậy thì. Biểu hiện tinh hoàn sẽ sưng to và mào tinh căng phồng lên. Tình trạng viêm này có thể kéo dài từ 3 đến 7 ngày. Sau đó khoảng 50% trường hợp có teo nhỏ tinh hoàn sẽ mất khả năng phóng tinh và có thể gây tử vong ở bệnh nhân này.
2. Biến chứng ở nữ giới
- Viêm tinh hoàn: Biến chứng này chiếm tỷ lệ 7% ở phụ nữ sau tuổi dậy thì.
- Biến chứng quai bị ở phụ nữ mang thai: Thường trong 3 tháng đầu thai kỳ, biến chứng này có thể dẫn đến sảy thai hoặc làm thai nhi dị tật, ở 3 tháng cuối thai kỳ có thể dẫn đến sinh non hoặc thai chết lưu.
3. Một số biến chứng khác có thể xảy ra ở nam và nữ như
- Nhồi máu phổi: Khi đó một vùng phổi bị thiếu máu sẽ dẫn đến hoại tử mô phổi. Đây là biến chứng sẽ xảy ra sau khi bị viêm tinh hoàn do quai bị nguyên nhân là do huyết khối từ tĩnh mạch tuyến tiền liệt.
- Viêm phổi: Có tỷ lệ 3% – 7% và là một biểu hiện nặng bệnh. Biểu hiện của viêm tuỵ gồm đau bụng dữ dội, bệnh nhân buồn nôn và có thể huyết áp tụt, hôn mê hoặc tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời.
- Các tổn thương tâm thần: Viêm não có tỷ lệ 0,5%, bệnh nhân có những biểu hiện sau: người bệnh hay mệt mỏi, khó chịu, tính tình thay đổi, thường xuyên đau đầu, chóng mặt, mất trí nhớ và hôn mê, nhiều trường hợp đầu bệnh nhân to lên do não chèn ép. Tổn thương thần kinh sọ não dẫn đến những ảnh hưởng nghiêm trọng về thể chất và tinh thần cho người bệnh, người bệnh có thể bị điếc, viêm tuỷ sống cắt ngang, mất trí nhớ. ..
- Bên cạnh đó người bệnh còn có các triệu chứng của viêm cơ tim, viêm phổi, viêm thanh phế quản, xuất huyết hạ tiểu cầu, viêm phổi. ..
- Chẩn đoán, xét nghiệm bệnh quai bị
- Chẩn đoán quai bị phần lớn dựa theo dấu hiệu lâm sàng, tuy nhiên những bệnh nhân này phải tiến hành một vài xét nghiệm tách biệt.
- Đối với bệnh ở thể nhẹ khi đó triệu chứng viêm tuyến nước bọt không điển hình cần đi kiểm tra và điều trị tách biệt với những bệnh sốt nhiễm virus ở đường hô hấp trên.
- Đối với quai bị có viêm tuyến nước bọt cũng cần chú ý phân biệt với một số bệnh có những biểu hiện tương tự như bệnh viêm long tuyến mang tai gây nên do vi trùng, có dấu hiệu sưng tấy, đỏ, nóng, có mủ rỉ ra từ đầu ống Stenon; viêm phì đại tuyến mang tai hoặc ung thư tuyến nước bọt mang lại, hay viêm hạch góc hàm dưới do nhiễm khuẩn ở khu vực xung quanh như lưỡi, hàm, môi.
- Xét nghiệm: Ví dụ đối với bệnh ung thư việc xét nghiệm thường ít khi được áp dụng cho chẩn đoán bởi vì bệnh có nhiều dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng cực kỳ rõ ràng. Các kết quả xét nghiệm cũng được chỉ định trong một số trường hợp rất khẩn cấp để dùng trọng chứng.
Phương pháp điều trị bệnh quai bị
- Hiện nay, chưa có thuốc nào điều trị đặc hiệu bệnh quai bị, chủ yếu vẫn là kiểm soát các triệu chứng kết hợp chăm sóc người bệnh và phòng tránh những biến chứng nguy hiểm có thể gây nên của bệnh: (3)
- Đầu tiên, khi người bệnh có triệu chứng đau sưng ở tuyến mang tai cần đến ngay các cơ sở y tế để được bác sĩ thăm khám và chẩn đoán xác định bệnh. Một số bệnh gây viêm tuyến mang tai không đặc hiệu gây nên do virus quai bị có thể gây ra bởi những vi khuẩn và virus khác;
- Nếu có các dấu hiệu sốt hay sưng vùng má, bệnh nhân có thể dùng các thuốc giảm đau, hạ sốt để điều trị;
- Người bệnh cần uống nhiều nước để bổ sung vitamin và các chất điện giải, nên dùng Oresol để phục hồi nhanh hơn;
- Để tránh tình trạng sưng tấy ở tuyến mang tai, bạn nên chườm mát;
- Không nên dùng những thực phẩm quá ngọt, thức ăn có gia vị cay nóng hay chua. Nên ăn các thực phẩm lỏng, mềm, dễ nhai, dễ tiêu hoá như canh hoặc súp;
- Không tuỳ tiện sử dụng thuốc kháng sinh, chỉ dùng kháng sinh khi có chỉ định của bác sĩ và khi nghi ngờ có bội nhiễm;
- Người bệnh cần hạn chế vận động mạnh, nằm nghỉ ngơi thoải mái, tránh tiếp xúc với người trong nhà và người lạ nhằm hạn chế lây lan;
- Với bệnh nhân nam nếu có các biểu hiện viêm tinh hoàn hoặc ở bệnh nhân nữ có dấu hiệu viêm buồng trứng cần được theo dõi chặt chẽ ở bệnh viện, tránh để lại những biến chứng đáng tiếc ảnh hưởng đến sức khoẻ về sau này.
Chăm sóc người bệnh quai bị
Người bệnh quai bị cần được chăm sóc kỹ lưỡng nhằm hạn chế những biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra. Bệnh nhân cần được các cơ sở y tế thăm khám và cho chỉ định thuốc cũng như có thể thực hiện những xét nghiệm cần thiết cũng như kiểm tra dấu hiệu sinh tồn.
Bên cạnh đó người bệnh cần được ăn uống và nghỉ ngơi đầy đủ như:
- Nghỉ ngơi, nằm khi có sốt cao;
- Có thể chườm nóng vùng tuyến mang tai bị viêm để giảm sốt;
- Nếu sốt cao cần lau mát để hạ sốt;
- Đối với nam giới nên mặc quần lót nâng bìu, làm mát và giảm đau đớn cho bệnh nhân;
- Chăm sóc kĩ răng miệng giúp chống nhiễm khuẩn và tạo cảm giác ăn uống tốt hơn;
- Tắm rửa sạch sẽ mỗi ngày;
- Bệnh nhân nên được dùng thức ăn lỏng, mát, tránh các đồ ăn quá chua, cay, có nhiều muối;
- Tránh nói chuyện với bệnh nhân, khi tiếp xúc phải đeo kính, vệ sinh miệng sạch sẽ;
Phòng ngừa bệnh quai bị
Quai bị tuy là căn bệnh lành tính nhưng cũng có những ảnh hưởng nặng nề với sức khoẻ. Đặc biệt bệnh chưa có thuốc đặc trị, do đó phòng bệnh được coi là biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ sức khoẻ.
Người dân cần được nâng cao nhận thức để phòng tránh cũng như hiểu hậu quả của bệnh tật gây ra, nhất là các vấn đề liên quan đến sức khoẻ sinh sản. Nâng cao tầm quan trọng của tiêm chủng và các biện pháp vệ sinh cá nhân, môi trường, cách nhận biết dấu hiệu bệnh để thông báo với các cơ sở y tế nhằm xử lý kịp thời tránh bùng phát thành ổ dịch.
Biện pháp phòng ngừa chủ động có hiệu quả nhất cho bệnh quai bị là sử dụng vaccine quai bị. Vaccine quai bị nên được tiêm sớm khi trẻ từ 12 tháng tuổi, hiện nay tại Việt Nam hay sử dụng là vaccine phối hợp sởi – quai bị – rubella. Các vaccine được nghiên cứu an toàn và có hiệu quả cao, bảo vệ lên đến trê 95% và kháng thể có thời hạn lâu bền.
Bên cạnh đó người phòng bệnh thuỷ đậu cần chú ý các biện pháp sau:
- Tuyên truyền rộng rãi về việc nâng cao nhận thức vệ sinh môi trường xung quanh, vệ sinh khu vực nhà ở, nhà trẻ, trường học, khu vực công cộng, nơi đông người. .. với tiêu chí mở cửa thông thoáng khí ở môi trường ở, khu vực sống và làm việc cần nhiều ánh sáng, sạch sẽ và ít bụi bẩn;
- Có thói quen giặt thay thường xuyên với xà phòng;
- Khu vực nhà ở, cơ quan, trường học. .. thông thoáng, chú trọng vệ sinh cá nhân thường xuyên, phòng ngừa các bệnh lây nhiễm;
- Khi có người nhiễm bệnh cần phải cách ly và điều trị tại nhà hoặc cơ sở y tế theo hướng dẫn của bác sĩ nhằm phòng lây lan sang người khác, khử khuẩn khu vực có người nhiễm bệnh;
- Khi nghi ngờ mắc bệnh cần đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được chẩn đoán và điều trị, đối với các trường hợp đã có biến chứng không nên chần chừ mà đến ngay bệnh viện để được xử lý kịp thời.